Vakkali là một thanh niên Bà La Môn ngụ tại
thành Xá Vệ. Thời niên thiếu và thanh xuân của chàng trôi qua bình thản trong
tình yêu của cha mẹ và các bạn hữu đồng trang lứa. Cho đến một hôm, tâm tư của
chàng trẻ tuổi bỗng dưng bị xáo động vì hình bóng của một Sa Môn áo vàng. Tư
thái uy nghiêm, cốt cách cùng tướng hảo vô song của vị tu sĩ khiến chàng trai
vô cùng kinh ngạc.Vakkali đứng ngây người ra chiêm ngưỡng phong cách vị tu sĩ
và cảm thấy lòng nhen nhúm một niềm yêu kính vô bờ đối với con người xa lạ đó.
Chàng nghĩ thầm:
- Quái lạ! Không ngờ trong cõi đời này,
lại có người đẹp trai lạ lùng đến thế. Ôi! Ước gì ta được ở kề cận bên người để
nhìn cho thỏa thích.
Vakkali dọ hỏi và được biết rằng vị Sa Môn ấy
xưa kia là một ông Hoàng vương giả, đã từ bỏ ngai vàng đi tầm đạo và đã giác
ngộ. Người ta thường gọi Ngài là Sa Môn Cồ Ðàm và hàng đệ tử thì cung kính gọi
Ngài là Thế Tôn.
Vakkali bèn xin xuất gia vào Tăng đoàn
sống đời khất sĩ. Vì mục đích xuất gia của chàng không lấy gì làm cao xa cho
lắm nên hàng ngày, ngoài những giờ đi bát cần thiết, Tỳ kheo Vakkali luôn luôn
tìm một chỗ ngồi thuận tiện để được chiêm ngưỡng từ dung đức Ðạo Sư cho thỏa
thích. Thầy chẳng quan tâm gì đến việc học kinh tọa thiền hay những bổn phận
của một chú tiểu sơ cơ. Ðấng Ðạo Sư biết rõ tâm niệm của Vakkali nhưng Ngài vẫn
im lặng chờ đợi, như chờ đợi ngày trăng đến rằm thì tròn vậy. Và ngày ấy đã
đến.
Một hôm đức Ðạo Sư quay lại bảo Vakkali, khi
chàng đang say đắm nhìn Ngài:
- Này Vakkali đâu có gì thích thú khi
nhìn ngắm một hợp thế bất tịnh gọi là thân ta? Chỉ khi nào Vakkali nghe lời Như
Lai dạy, thấy được pháp sinh diệt thì mới được gọi là thấy Như Lai.
Nhưng bất kể lời khuyên của Phật, Vakkali vẫn
giữ nguyên tâm niệm và thái độ cũ, chàng không thể nào buông tầm mắt khỏi đức Ðạo
Sư. Cuối cùng đức Ðạo Sư đành rời Xá Vệ và cấm không cho Vakkali đi theo.
Ba tuần trăng trôi qua, Vakkali không được
nhìn thấy hình bóng và nghe pháp âm của đấng Ðạo Sư lòng sầu khổ vô hạn, chàng
tự nghĩ rằng:
“Mình đã từ bỏ gia đình đổi lớp áo cao sang
của một chàng công tử danh gia để vào cuộc sống bần hàn khất sĩ, chỉ với một
mục đích duy nhất là được gần gũi chiêm ngưỡng đấng Ðạo Sư. Thế mà Ngài lại hất
hủi ghét bỏ mình, trong khi Ngài rất mực từ bi dịu dàng đối với tất cả chúng
sinh chí đến con sâu cái kiến.”
Một hôm quá sầu não, Vakkali nảy ra ý định
quyên sinh. Chàng leo lên một đỉnh núi cao, định buông mình xuống vực sâu cho
rảnh nợ đời. Biết được ý định ngông cuồng của người đệ tử trẻ tuổi, đức Ðạo Sư
hiện thân đến gần Vakkali và cất tiếng gọi:
- Nầy Vakkali hãy đến đây với Như Lai.
Vakkali run lên vì vui mừng:
- Có thật chăng? Có thật là Thế Tôn gọi
con, Ngài không xua đuổi con nữa ư?
Và dưới bóng mát của một cội cây rừng bên
tảng đá, đức Ðạo Sư ôn tồn bảo:
- Nầy Vakkali! Tại sao con có ý định quyên
sinh?
- Bạch Thế Tôn! Vì con cảm thấy quá sầu
não, quá phiền muộn. Con không tìm thấy niềm vui nào trong đời sống khất sĩ đạm
bạc nầy, ngoài việc chiêm ngưỡng tướng mạo phi phàm của Thế Tôn.
- Nầy Vakkali! Niềm vui nào rồi cũng
phải úa tàn. Sắc thân của Như Lai, dù là phi phàm đi nữa rồi cũng phải chịu sự
chi phối của già, bệnh, chết. Bất cứ pháp gì trên đời nầy có sinh đều phải có
diệt. Ðó là một định luật đương nhiên. Nếu biết rõ điều ấy, ta có nên đặt hết
lòng hy vọng bám víu vào những sinh diệt ấy, để mưu cầu một hạnh phúc vĩnh cửu
không bị tàn phai chăng?
Vakkali im lặng cúi đầu, đấng Ðạo Sư giảng
trạch thêm cho chàng về tính chất phù du, tạm bợ của cái hợp thể gọi là sắc
thân Ngài. Sau thời pháp Vakkali xúc động thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con đã hiểu rồi. Từ lâu
con đã chạy theo những bóng dáng phù du do tâm thức con phóng chiếu ra, lấy đó
làm niềm vui độc nhất của mình. Khi nguồn vui ấy bị cản trở con đâm ra buồn
phiền, sầu khổ. Con quá si mê không biết rằng cái gì có sinh cũng phải có diệt.
Sắc thân Như Lai tuy đẹp đẽ vô song thật, nhưng trước kia không, nay có thì thế
nào cũng sẽ trở về không. Nguồn vui của con cũng chỉ là một cảm xúc nhất thời
nếu không được nuôi dưỡng thì nó cũng phải lụi tàn. Con đã hiểu rồi và con cũng
xin hứa với Thế Tôn là từ nay Vakkali chỉ thực hành những lời giáo huấn của Như
Lai thay vì chiêm ngưỡng từ dung của Ngài như dạo trước.
- Hay lắm! Nầy Tỳ kheo! Nếu lòng con đầy
hỷ lạc đầy niềm tin nơi lời dạy của Như Lai thì chẳng bao lâu con sẽ đạt được
hạnh phúc tối thượng.
Và thế rồi, Vakkali từ giã đức Ðạo Sư độc cư
thiền định ngay trên đỉnh núi mà chàng định quyên sinh dạo nọ. Ðúng như lời
tiên đoán của đấng Ðạo Sư, chẳng bao lâu Vakkali đắc quả A La Hán. Từ đó đức
Thế Tôn xếp Vakkali vào hàng môn đệ có lòng tin chân thật nhất. Lời dạy của
Ngài cho Vakkali trên đỉnh núi dạo nọ cũng được kết tập vào Kinh tạng, thành
câu Pháp Cú 381, lưu truyền cho đến ngày nay:
“Thầy Tỳ kheo nào tâm đầy hoan hỷ,
Thành tín theo lời Phật dạy
Sẽ đạt đến cảnh giới an lạc
Giải thoát khỏi các hành”.
“Bởi giấc mơ tiên con lỡ say
Lòng con mến Phật tự bao ngày.
Ðêm nay chuông gọi hồn con tỉnh
Phủ sạch trần ai con đến
đây”.